Trịnh Sơn
Chia tay đám bạn đồng hành hơn tuần lễ dọc
biên giới Việt Trung, tôi lên chuyến tàu S ở Hà Nội. Toa tàu rỗng không. Có lẽ,
tôi là hành khách đầu tiên bước lên. Mà không, tôi chỉ là kẻ đến sau. Hai ông
bà lão lọ mọ bước vào. Họ đã đến trước, cất hành lý rồi rủ nhau xuống sân ga
làm gì đó. Cụ ông khe khẽ mỉm cười. cụ bà móm mém hiền dịu giọng Bắc: Cháu về
đâu? - Dạ, Sài Gòn. – Miền Nam đang vào mùa mưa hả? Vợ chồng già cũng vào Sài
Gòn. Không đợi tôi nói gì thêm, bà lão tiếp tục: Lâu lắm rồi ông nhỉ. Dễ gần bốn
mươi năm chứ ít gì. Mình mới lại vào Nam. Nhớ hồi đó, vừa giải phóng Sài Gòn
xong. Nước chưa kịp yên. Tôi loay hoay kinh tế mới, còn ông lại xách ba lô đi
biên giới Tây Nam. Nước mình sao mà khổ thế không biết…
Thì ra, ông bà cụ thuộc thế hệ “xẻ dọc
Trường Sơn”. Mấy mươi năm mới lại trở vào Nam mong tìm thăm chốn cũ người xưa.
Cụ ông hồ hởi như trai trẻ: Chẳng biết Sài Gòn còn đẹp như xưa không bà nhỉ?
Xem truyền hình, thấy cầu Sài Gòn đã làm lại nguy nga lắm. Ngày xưa, tiểu đoàn
tôi tiến vào Sài Gòn theo ngã ấy… Tâm hồn tôi đầy tràn mặc balô đã nhẹ tênh sau
tuần lễ “thám hiểm” từng cột mốc biên giới phía Bắc. Cưỡi ngựa xem hoa, nhưng
ít nhiều nét vẽ địa đầu chữ S đã in sâu vào não trạng chúng tôi hơn bất cứ hình
ảnh minh họa đẹp đẽ nào từng biết qua sách giáo khoa, tài liệu tuyên truyền hay
phim ảnh trước đó. Hôm đứng ở khe thác Bản Giốc, anh bạn tôi nổi nóng với một
nhóm khách Tây Ta lẫn lộn khác. Chuyện là
, anh chàng hướng dẫn viên du lịch huơ
tay múa chân diễn giải địa danh này theo điển tích Tàu. Hứng chí, anh chàng còn
ngâm cả thơ Hán nhằm ca ngợi vùng đất này tựa trang quốc sắc thiên hương Vương
Tường thời Hán Nguyên Đế:
Hán
cung hữu giai nhân
Thiên
sử sơ vị thức
Nhất
triêu tùng Hán sứ
Viễn
giả thiều vu quốc
Tuyệt
sắc thiên hạ vô
Nhất
thất nan tái đắc…
(Minh
phi khúc – Âu Dương Tu)
Khách Tây không biết thì không nói,
nhưng khách Ta cũng hô hố nói cười, khen đất Trung Quốc sao mà đẹp thế. Họ uốn
éo chụp ảnh trước viễn cảnh danh lam. Họ xì xồ ca ngợi người Tàu giỏi giữ gìn cảnh
quan thiên nhiên. Họ e thẹn tán tụng Ma
chiến hữu của Mạc Ngôn… Anh bạn tôi hết kiềm chế nổi khi một cặp nam nữ ngã
ngớn tạo dáng với cột mốc biên giới, anh hét toáng lên, ra ý muốn xua họ đi,
không muốn họ giễu cợt với tài vật linh thiêng dựng nên bằng máu và nước mắt
bao thế hệ cha ông. Chị bạn đi cùng ngăn lại: Nổi nóng mà làm gì! Họ có thể nằm
dài lên bản đồ Việt Nam, có thể nhổ toẹt vào lịch sử bốn ngàn năm Văn hiến, có
thể phủ nhận quá khứ hào hùng… Cũng chỉ là một thái độ, một cành cây mọc lên từ
cội rễ Việt Nam. Cành dại chết yểu hoặc bị sâu mọt mục ruỗng, mọi sự có thể ấy
nào phải lỗi của họ. – Vậy, lỗi của chúng ta à? Hay, lỗi của ai?
Một câu hỏi đâu dễ trả lời. Nhất là giữa
lồng lộng đất trời tổ quốc. Một bên là quê hương máu thịt từ thuở cha ông khởi
nghiệp dựng nước và ngàn năm ra sức giữ nước. Còn, phía bên kia là kẻ thù
phương Bắc khổng lồ chưa bao giờ nguôi ngoai tư tưởng bá quyền, muốn thôn tính
láng giềng vốn nhỏ bé, hiền lành, chuộng hòa bình và có phần cam chịu. Chị bạn
ôn tồn: Họ dám rời xa phố thị trung tâm rực rỡ đèn màu chè chén, chịu xách ba
lô vượt đường xa hiểm trở thăm thú vùng biên đã là quý lắm rồi. Còn đòi hỏi gì
hơn nữa? Thái độ với chiến tranh, với vấn đề chủ quyền tổ quốc mỗi người mỗi
khác. Đừng bắt họ giống chúng ta. Ngay cả chúng ta chưa hẳn đã răm rắp giống
nhau. Nổi nóng làm gì? Nổi nóng là yêu nước à? Không. Nổi nóng chỉ là trò con
nít.
Vâng, chúng tôi vừa bước qua tuổi con
nít chừng dăm mười năm. Mòn vẹt ghế nhà trường và giáo điều khuôn phép rồi cắp
cặp vào đời. Có người làm kỹ sư, bác sỹ – cũng có người công nhân, phu xe. Có kẻ
ngồi phòng lạnh công chức sáng đi chiều về tối tiệc tùng – cũng có kẻ bon chen
nhảy xô vào cuộc mưu sinh trầy vi tróc vẩy. Yêu nước là gì? Yêu nước thế nào? Mỗi
năm, ky cóp được dăm ba triệu và ới nhau đi thăm thú đất đai quê hương. Kỹ sư
nhìn đất cát bạc màu cùng những công trình dang dở hỏng hư do bị rút ruột mà tặc
lưỡi thở dài: Giá mà mình được xắn tay áo lao vào những công trình này. Sẽ đẹp
hơn, bền vững hơn và tiết kiệm hơn. Bác sỹ đỏ mặt tía tai khi chứng kiến trẻ em
và người già vùng sâu vùng xa đói kém, thiếu thốn thuốc men và điều kiện chăm
sóc sức khỏe: Sớm muộn gì, mình cũng tình nguyện về đây chữa trị, chăm sóc cho
bà con. Công chức điềm đạm hứa với lòng: Nghiêm khắc với bản thân, không tham
ô, cửa quyền, làm việc nghiêm túc xứng với đồng tiền bát gạo nhân dân đóng thuế.
Kẻ chợ trời táo bạo với kế hoạch lâu dài, cạnh tranh và từng bước đẩy lùi hàng
Tàu kém chất lượng, sử dụng hóa chất độc hại… Vẫn chỉ là những lời hứa khi Bản
Giốc đã mập mờ nằm về phía bên kia biên giới. Nhưng, mỗi lời hứa tự nó mang sức
mạnh vực dậy tinh thần và ý thức của một thế hệ đã đi quá xa dòng chảy lịch sử
kiên cường dựng nước, giữ nước của tổ tiên Lạc Hồng. Mỗi lời hứa là một tín hiệu
lạc quan trên con đường tít tắp biến động chính trị, kinh tế và xã hội mà một đất
nước “kém may mắn” như Việt Nam phải gánh chịu khi cặp nách con voi hung tợn
láng giềng. Mỗi lời hứa, có thể như cái sờ tay của lão thầy bói mù mà định đoán
và ước mơ, còn hơn cứ khoanh tay ngồi nhìn xứ sở ngày càng già nua, hao hụt như
chuyện đã rồi. Cứ như, mình không can dự gì vào vận mệnh quốc gia này. Cứ như,
mình là kẻ ngoài cuộc. Anh bạn mở smartphone, thầm thĩ đọc mấy câu thơ trên mạng:
Chúng
ta – bóng ma của oán khí nhiều nghìn năm tích trữ
chúng
ta mang trong mình những lời nguyền rủa
mỗi
bước chân của ngươi đặt lên đất này
sẽ
phải trả bằng tật ách và tai ương
từ
bây giờ tới đời đời kiếp kiếp
Chúng
ta – bóng ma của những chiến binh không bao giờ chết
nhựa
sống mới chảy trong từng huyết quản
nhưng
nỗi căm hờn dường như không còn mới
nỗi
căm hờn truyền đời không có tuổi
Chúng
ta – bóng ma của những khung xương sinh ra không phải để luồn cúi
dưới
trời này trên đất này
bằng
tình yêu và tuổi trẻ
chúng
ta dựng nên những thành trì
những
– thành – trì – vĩnh – viễn – không – sụp – đổ.
(Những
bóng ma – Khuong Ha Bui)
Anh chàng hướng dẫn viên du lịch có vẻ
chăm chú lắng nghe, rồi tiến lại gần chúng tôi, xin link bài thơ. Anh chàng thốt lên khi mở được trang web: Ồ, tác giả ghi chú “thơ a dua theo các bạn yêu nước”. Chúng
tôi cười mỉm nhìn nhau và nhìn anh chàng hướng dẫn viên du lịch đang tọ mọ dịch
từng lời bài thơ cho nhóm khách Tây nghe. Họ có thể hiểu trọn vẹn không, khi từng
câu chữ gan ruột của một người Việt đang được xướng vang trên mảnh đất Việt,
ngay vùng biên khắc khổ cửa ngõ chiến tranh? Họ ít nói cười hơn. Họ xin phép share bài thơ chưa từng đăng báo nhà nước
của một tác giả ngay cả cái tên còn thiếu dấu. Hỏi nhau: Người viết Những bóng ma là ai? Đàn ông hay đàn bà?
Già hay trẻ? Anh chàng hướng dẫn viên du lịch từ tốn: Chắc chắn, người viết bài
này thuộc thế hệ chúng ta. Thế hệ F.
Chị bạn cùng nhóm tôi nháy mắt với anh bạn
định sửng cồ ban nãy, như muốn nói: Thấy chưa? Đừng nổi nóng. Đừng ham trò con
nít. Bây giờ, chúng tôi – những kẻ mò mẫm lịch sử bằng dấu chân mình theo từng
cột mốc Việt Nam và họ – đơn thuần du lịch thăm thú cảnh quan thiên nhiên, để
chụp ảnh kỷ niệm, để đăng Facebook, Twistter hoặc các mạng xã hội khác, bỗng
dưng trở thành một nhóm. Cắm trại, đốt lửa, trò chuyện và chia sẻ với nhau nhiều
câu chuyện về đất nước hình chữ S mến yêu. Cả về thời sự, xã hội, nếp sống lẫn
văn chương. Chia tay, anh chàng hướng dẫn viên du lịch, bấy giờ đã trở nên quen
thân hơn bao giờ, tặng chúng tôi cuốn sách Xác
Phàm của Nguyễn Đình Tú. Cái duyên nở đẹp làm sao, vì một người trong chúng
tôi viết lời bạt cho tác phẩm này, in trên bìa 4. Anh chàng hướng dẫn viên du lịch
bảo: Nhờ đọc cuốn sách này, muốn tìm hiểu “cuộc
xâm lăng thứ mười một và tiến quân chậm nhất trong lịch sử” của giặc phương
Bắc với nước ta nên quyết định mở tour
về biên giới Việt Trung. Anh bạn nóng tính đã nguội hẳn, chân tình hỏi: Vậy, tại
sao còn chuộng Tàu, ca ngợi Tàu, phớt lờ quá nhiều mảng mờ lịch sử – nhất là đối
với khách Tây chưa hiểu biết về lịch sử nước ta? – Mỗi người có cách giữ gìn và
sống với lịch sử theo cách riêng mình. Lòng yêu nước cũng vậy. Đừng bắt ai bội
thực vì lịch sử hoặc lòng yêu nước theo cách của bản thân. Anh chàng hướng dẫn
viên du lịch mở ipad và nhắn cho từng người chúng tôi một đoạn, cũng từ mạng xã
hội:
“Nếu
bạn yêu nước thực sự, hãy làm việc nghiêm túc để kiếm nhiều tiền hơn mà mua đạn,
tên lửa, tàu ngầm hay tốt hơn hết là mua luôn cả kẻ thù của chúng ta. Nếu bạn
xót xa thực sự về vận mệnh đất nước thì xin đừng phí phạm mạng sống của mình và
của người khác bằng những cuộc đua xe thâu đêm. Nếu lộn ruột với những chiếc
tàu đi ‘sai luật quốc tế’ vào sát sàn sạt bờ biển nước mình thì hãy bình thản
chờ đến đèn xanh hẵng đi chứ đừng rồ ga vượt đèn đỏ để lao vào những người đi
đúng luật. Nếu thực sự cảm thấy bị xúc phạm khi kẻ mạnh lấn lướt thì hãy dừng
ngay việc chen lấn khi mua xăng hay vừa quệt xe đã lao vào nhau mà đấm đá đâm
chem… Còn nhiều lắm những điều nhỏ nhỏ như thế”.
(Có bao nhiêu cách yêu nước – Tiendat
Le)
Toa tàu đầy dần. Đa phần sinh viên vào
Nam chuẩn bị nhập học. Đặc biệt, sát giờ tàu lăn bánh, có hai anh chàng mặc
quân phục lính biển hối hả bước lên. Hối hả tìm chỗ, rồi hối hả chồm ra cửa sổ.
Dưới sân ga,có lẽ vợ con, người thân hoặc người yêu đang dõi theo họ. Tôi gấp
cuốn Xác Phàm lại, lắng nghe tiếng
còi tàu hụ dài. Con rồng sắt mang tên chữ S rùng mình trườn tới. Yên ắng được một
chốc, toa tàu rộn ràng hẳn lên. Hành trình mấy ngày đêm đủ dài để mỗi hành
khách tìm kiếm bạn đường, giết thời gian. Mấy cô cậu sinh viên hỏi han nhau
chuyện trường lớp. Ông lão than đau lưng. Bà lão tặc lưỡi: Gớm. Thời gian cứ
vùn vụt đi mà vết đạn xưa cứ nằm yên đấy, chẳng chịu đi cho mình nhờ. Cố lên
ông ạ. Vào chiến trường cũ, tìm được hài cốt đồng đội còn thất lạc thì cực mấy
cũng mãn nguyện. Anh lính biển trẻ tuổi hơn lại gần ông lão: Xưa, cụ chiến đấu ở
vùng nào ạ? A, cháu nhớ ra rồi. Cụ lên truyền hình dịp 27/7 năm ngoái, trong
chương trình tôn vinh thế hệ sinh viên Hà Nội xếp bút nghiên lên đường cứu nước.
May quá, cháu lại được đi cùng chuyến tàu với cụ. – Thế các cháu đang đi làm
nhiệm vụ à? – Dạ, bọn cháu vừa xong phép, giờ trở lại đơn vị. – Đóng quân ở
đâu? – Bọn cháu ra tít Trường Sa.
Hai tiếng Trường Sa nho nhỏ mà có sức
hút hơn bất kỳ bí mật nào. Cả toa tàu dường im phăng phắc, thừa ra một khoảng
trống dài cho tiếng ken két đường ray chen vào. Bà lão nắm tay chàng lính biển:
Đi lâu không? Ban nãy, cô gái khóc dưới sân ga là vợ cháu à? – Dạ, mới yêu thôi
ạ. Lần gặp này mới là lần thứ hai. Lần trước, cách đây gần năm, cô ấy theo đoàn
nhà báo ra thăm Trường Sa. Thư từ qua lại, thế là yêu. Chàng lính biển chừng
hơn hai mươi, thỏ thẻ kể chuyện tình yêu, mặt bừng như gấc. Một cô sinh viên
tháo tai nghe nhạc, hỏi với sang: Thật ạ? Mới gặp hai lần mà yêu được à? Thế,
anh đã thề non hẹn biển gì chưa mà chị ấy khóc dữ vậy? Chàng lính gãi đầu bẽn lẽn.
Chàng lính lớn tuổi hơn gỡ rối cho bạn: Bọn anh ngụp lặn với sóng với biển với
đảo, chưa biết sáu tháng, một năm, hay có thể lâu hơn mà thề với hẹn bé ơi! Cứ
biết yêu nhau là tin, là chờ đợi, là nhung nhớ suông thôi. Bao giờ biển im sóng
lặng mới quyết chuyện gia đình riêng tư được!
Bất giác, tôi thần người ra. Lời chàng
lính biển cứ như chuyện tình thời chiến. Nước Việt mình, sao cứ mãi hừng hực
chia ly đành đoạn thế nhỉ? Sao người ta không thể yên bình bồi đắp ước mơ và
khát vọng, dẫu đã qua bao cuộc chiến tranh tang tóc? Tôi, và biết bao bạn bè
cùng trang lứa khác, mỗi ngày mỗi đêm vẫn còn vật lộn với những toan tính đời
thường, cốt sao kiếm tiền nhiều hơn, đời sống sung túc hơn, gia đình hạnh phúc
hơn – liệu có dám gác đời riêng qua một bên, xung phong ra tuyến đầu trước tầm
ngắm chết chóc của địch, để bảo vệ và giữ gìn lãnh thổ hùng thiêng? Thậm chí, mấy
người chúng tôi có sẵn lòng từ bỏ chút ít lợi danh hèn mọn, để sống tốt hơn, để
vươn lên cái mình đang có, để góp phần dựng xây đất nước và xã hội văn minh,
giàu đẹp đúng nghĩa? Hay, cứ mãi bon chen tất bật với cơm áo gạo tiền, sẵn sàng
mưu mô lợi lộc, làm quan thì tham ô, cửa quyền; làm dân thì luồn cúi, hối lộ,
nhịn nhục, sống hèn; làm kinh doanh thì gian tham lừa lọc; đi học thì lười biếng,
ỷ lại, chạy chọt xin điểm; làm thầy thì dụ dỗ, cò mồi đổi chác với trò; làm văn
hóa nghệ thuật thì lười sáng tạo, hám danh lợi? Thế hệ F tự hào với công nghệ
khoa học tiên tiến, nhưng nước ta có thực sự tạo ra bước ngoặt văn minh nào
đáng kể chưa – hay chỉ là thừa hưởng, “há miệng chờ sung rụng” từ nền khoa học
thế giới? Giáo sư, tiến sỹ vào loại đông nhất thế giới, mà đến cái đèn lồng
trung thu cho trẻ em cũng phải nhập từ Tàu. Thế hệ F Việt Nam có thể ngẩng cao
đầu được không, khi mỗi sáng ra là ngập đầu vào hằng hà sa số vụ cướp, giết, hiếp
lọa xạ trên báo giấy báo mạng? Thế hệ F mấy người còn lý tưởng nào khác, ngoài
việc cúc cung sùng bái sao này xiếc nọ, sẵn sàng cúi xuống hôn ghế thần tượng,
sẵn sàng nước mắt ngắn nước mắt dài vì một trận cầu – ngược lại, dửng dưng với
vận mệnh tổ quốc, lạnh nhạt trước ngư dân bị cướp bóc, giả vờ không nghe không
thấy đồng bào lạnh lẽo đói nghèo, bệnh tật? Hay, đông đảo thế hệ F Việt Nam
đang hiến niềm tin và tự trọng vào những trò phù phiếm, nguyện dâng mình cho những
màn kịch rẻ tiền thâu đêm suốt sáng trong nhà ngoài phố? Cả tôi nữa, tôi có dám
bớt một buổi chè chén để góp phần cơm có thịt cho đồng bào cần lao? Có đội nắng
dầm mưa tìm thăm người già neo đơn, trẻ em khốn khổ hoặc dân oan khổ nạn? Có
dám cất lên tiếng hót của riêng mình – thứ ngôn ngữ tổ tiên ngàn đời truyền lại
– vì công lý, hòa bình, hạnh phúc, văn minh? Có tận tâm tận lực thực hiện ước vọng
dựng xây đất nước – hay cứ khư khư an phận nấp trong vỏ bọc thủ thân và mặt nạ
an toàn?
Cô sinh viên ngắt ngang dòng suy tư của
tôi bằng một câu hỏi khác với chàng lính biển trẻ tuổi: Anh yêu nước hơn gia
đình à? Chàng lính biển lại đỏ mặt. Cả toa tàu cười ồ. Con tàu đang hì hục băng
qua cánh đồng vàng ươm. Mùa gặt mới. Thấp thoáng, những dáng bà, dáng mẹ, dáng
chị, dáng em còng lưng với lúa với đồng dưới cái nắng gắt cuối hè. Chàng lính
biển lớn tuổi lái câu chuyện khe khẽ với cô sinh viên bên cạnh: Cả nhà anh đều
làm đồng. Ba anh mất hồi chiến tranh biên giới 79. Mẹ anh chỉ mong sớm có con
dâu, có cháu để bồng… Họ thì thầm với nhau suốt chuyến đi. Tôi giở trang tiểu
thuyết Xác Phàm đọc dở. Hai nhân vật
chính, Việt và Nam đang thổn thức với tình yêu chừng như số phận dân tộc, gần
gũi và đau nhói tựa cuộc chiến tàn khốc đất nước mình đã trải qua. Trước nay,
gánh nặng chiến tranh chưa bao giờ khiến người Việt thôi yêu nước, chịu khuất
phục bất cứ kẻ thù nào. Chợt nhớ mấy câu của Ilya Erenburg: “Lòng yêu nước ban
đầu là yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố
nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùi cỏ thảo
nguyên có hơi rượu mạnh”. Tôi có yêu nước không? Ông bà lão đã trải qua cuộc
chiến dằng dặc có yêu nước hơn thế hệ F ngày nay? Hai chàng lính biển hy sinh
tuổi trẻ vì biển đảo có yêu nước hơn mấy cô cậu sinh viên đang náo nức bước vào
đời? Mặc nhiên, chúng tôi đang thản nhiên bền bĩ nắm tay nhau trên một chuyế
tàu dài, tạo thành một cộng đồng nhỏ nhoi góp phần vào dàn đồng ca tổ quốc.
Tiếng người càng lúc càng rộn rã. Đoàn
tàu không còn khoảng trống nào để nói năng gì nữa. Hai chàng lính biển kể chuyện
sóng gió, canh gác đảo xa. Mấy cô cậu sinh viên hào hứng bàn luận việc học
hành. Ông bà lão móm mém ôn “thời hoa đỏ”. Trước ga cuối cùng, tôi kịp tặng Xác Phàm cho chàng lính biển trẻ tuổi.
Con tàu dừng lại. Người ra đi đã thành kẻ trở về. Toa lại trống. Ga lại đông.
Tôi nán lại với con tàu chốc lát, biết thể nào nó cũng đi nữa. Bổn phận và vinh
quang và nhọc nhằn của một con tàu là gì – nếu không phải là mãi miết đi về và vô
tư mang vác biển khơi và núi đồi dọc chiều dài đất nước? Trước khi đón xe về
nhà, tôi ghé qua nhà sách. Tuần trước, nhà thơ xa xứ Nguyễn Phan Quế Mai vừa
cho ra mắt tập thơ Tổ quốc gọi tên mình.
Núi
Dinh, 8/2015
TS.