Khi chúng tôi đi khắp nơi tìm thú phiêu lưu, chúng tôi không phải kẻ thù của quý vị. Chúng tôi muốn hiến cho quý vị những địa hạt mênh mông và lạ lùng. (APOLLINAIRE)

Thơ. Cháy. Trịnh Sơn

Trần Đình Lương
Thay lời tựa TRỊNH SƠN THƠ

Thu vàng - Đường Linh

Không sợ chết đâu
Không sợ nghèo đâu
Anh chỉ sợ một buổi sớm nào đó thức dậy
và không biết gì nữa
Không nhớ gì nữa
Em của ngày vú cứa môi cong..

Không sợ đói đâu
Không sợ buồn đâu
Anh chỉ sợ phải nhoẻn môi cười khoe hàm răng vàng khói thuốc
Trước những hàm răng nhọn hoắt trắng hếu..

Không sợ chết, không sợ nghèo, không sợ đói, không sợ buồn – nhưng, lại sợ nỗi quên, sợ một nụ cười gượng trước con người.
Cái sợ và không-sợ ấy của Trịnh Sơn đã khiến tôi bị cuốn hút ngay vào thơ anh. Ngôn ngữ mãnh liệt và cảm xúc bão táp trong thơ Trịnh Sơn làm tôi liên tưởng đến tiếng thơ sôi nổi của
V. Maiakovski ngày nào.
Không khó gì khi ta muốn hiểu về những thông điệp trong thơ anh. Thơ Trịnh Sơn là những trang tự bạch về thân thế, về tình yêu, về những mối trăn trở xã hội và con người mà anh đang sống. Anh bộc trực, anh nhìn thẳng, anh không khuất tất với ai về những bộc lộ của mình. Như một ngọn hỏa sơn đang thời kỳ hoạt ̣động, thơ anh cứ thế mà tuôn trào. 40 bài thơ, trên trăm trang giấy, anh đã viết trong mọi hoàn cảnh sống của mình suốt 8 tháng trời liên tục, để chúng ta có trên tay tập thơ này. Đã từ bao lâu chúng ta chờ đợi những con người trẻ với nhiệt huyết thơ ca như vậy đến với sinh hoạt thơ văn.
Với những thông điệp mở ngỏ trong thơ Trịnh Sơn tôi xin được yên lặng lắng nghe và chỉ xin có đôi nhận xét nhỏ về những biện pháp nghệ thuật mà anh đã dùng trong tập thơ. Cách nói, theo tôi, quan trọng hơn cả điều nhà thơ muốn nói.


Đứa bé tôi đứa bé chị tôi
Đứa bé ba tôi đứa bé mẹ tôi

...

Đứa bé đái dầm cả cuộc đời
Ướt võng ướt áo
Ướt lúm đồng tiền thanh xuân chị
Ướt mây trắng bay qua tóc mẹ

...

Anh tin trở lại
Tin trở lại từ xào xạc gió nắm đất mẹ chìm lưng biển
Tin trở lại từ ngọt đắng cánh tay em quạt mộ tình đầu
Tin trở lại từ nỗi sợ hãi khuya khuya vặn vẹo vòng vèo những giấc mơ

...

Giọt buồn giọt vui giọt cay giọt bùi giọt rưng rức giọt ngậm ngùi


Rất dễ bắt gặp những điệp ngữ anh hay dùng trong mỗi câu thơ, trong nhiều đoạn thơ. Anh không ngại nhắc đi nhắc lại một số từ tâm đắc trong suốt bài thơ để làm bật lên một nỗi day dứt, một miền đắng cay hay một niềm thống khổ. Cách dụng ngữ này khiến người đọc dễ dàng tiếp cận với những điều đã ám ảnh trong anh. 


“Cúi xuống, cúi xuống, thật gần” nhìn kĩ từng con chữ, Trịnh Sơn đã cho ta thấy nhiều điều thú vị:



Trôi thì trôi
Thuyền không quen lụy cánh buồm


Từ trôi đến lụy, từ con thuyền tới cánh buồm, anh đã lướt rất nhanh qua ngưỡng cửa bất cần, khinh bạc đóng mở thân phận và cả thế hệ mình.


Vẫn tôi run bắn theo nhịp điện thoại rung
Vẫn phấp phỏng mồ hôi chờ giờ chảy xuống


Những giọt mồ hôi chờ giờ chảy xuống đã làm tôi liên tưởng đến bức tranh siêu thực vẽ chiếc đồng hồ tan chảy (Sự dai dẳng của ký ức ) của nhà danh họa Tây Ban Nha Salvador Dali và tiếng chuông điện thoại đột ngột rung trong lúc chờ người khiến chúng ta cũng chợt cùng run bắn lên với Sơn !


Em bỏ lúa bỏ đồng sao còn trồng lên đời mình cụm lục bình tím bạc


Từ bỏ tới trồng, là một khoảng lặng hay khoảng động ? Chỉ biết rằng bể dâu đã nguôi ngoai vọng cùng. Cách sử dụng từ phản nghĩa hết sức chính xác, thân phận của những thôn nữ miền Tây chợt thấy lênh đênh phiêu bạt như những cánh bèo đến những chân trời xa đầy bất trắc. 
Hãy để tâm tới sức nặng ngàn cân của hai động từ ném và xé trong hai câu thơ dưới đây. Nó liên hệ đến cả một sự nghiệp của một con người đấy:


Anh vò nát ngàn câu thơ đói khát
ném vào lửa
- lửa tắt
Anh xé vụn tuổi hai mươi bệnh tật
ném vào em
- em khóc


Mang ngôn ngữ cụ thể đặt cạnh ý niệm trừu tượng, Trịnh Sơn đã khiến câu thơ mình viết trở nên có hồn tính, đầy sức thuyết phục:


Đêm lắc lư tôi không yên/Anh không tiếc bụm thời gian đã ném vào cuộc tình trắng/ Thấy có ai bỏ rơi giấc mơ phải khom lưng cúi nhặt
Chúng nó tan thấm nhau rồi/Tan thấm nhau như nước thấm vào lửa như cá thấm vào mồi/

Táy máy chơi chữ, đôi khi, anh đã vận động kiểu thở Hồ Xuân Hương khiến chữ nghĩa cũ đã trở lại một bộ mặt mới – có thể cũ hơn nữa, và ngược lại :


Mấy mùa đã với vơi vời vợi đau/Tỏng tòng tong xác pháo/ Tay nỏn nòn non/ 


Cũng có lúc Trịnh Sơn trở về với khu vườn ngày nào : thơ lục bát; nhưng thơ khuôn khổ vốn không phải là điều thích hợp với con người anh nên tôi thấy anh chỉ làm ít cuộc dạo chơi rồi thôi. Lối diễn đạt tự do mới là sở trường của anh.
Cho dù có phóng túng về ý tưởng đến mấy, tôi vẫn thấy anh lưu tâm rất nhiều đến âm điệu (Ẩn dấu), đến sự sắp đặt số từ ngắn dài cho mỗi câu thơ, đến bố cục của toàn bài thơ, và nhất là các câu thơ kết.


Những câu thơ quá gầy 
Như cuộc đời anh vậy


Đây chỉ là một cách nói thơ thôi. Trịnh Sơn không hề gầy trong thơ. Quặng mỏ ngôn ngữ của anh rất lớn về mặt tiềm năng và mới chỉ khai thác ở một tầng đầu. Phong phú về ngôn ngữ, rực cháy bằng ý tưởng, tôi tin Sơn sẽ đi rất xa trên con đường thơ ca.


Thơ bẩy đời lên và bẩy tôi lên
Áo em phơi Điểm Tựa
Tim em thắp lửa
Rộn ràng
Thơ
Cháy


Thơ sẽ mãi hừng hực bốc cháy như tuyên ngôn của anh. Tiếng thơ Trịnh Sơn sẽ vang lồng lộng linh lung với đất trời. Không lâu nữa.

Sydney, tháng 1/2010
T.Đ.L

Lên đầu trang