Trịnh Sơn
Sau nhiều năm lặng lẽ đọc, say sưa
ngắm nhìn và tỉ mỉ làm phép so sánh, tôi tìm được một điểm chung duy duy nhất
trên gương mặt văn chương của hai ông: Nhà văn VŨ BẰNG và Thi sĩ NGUYỄN QUANG
THIỀU, là rực rỡ nỗi hoài nghi không ngừng tự xâm chiếm vào trong bản thân họ
và kích thích một trường lực cân bằng động – hướng mũi tên tâm cảm của mình
nhắm thẳng hồng tâm thế giới bên ngoài. Hoài nghi là một trạng thái hay chỉ
giản đơn tích tắc một gam màu sắc trên chân dung của một tượng hình ý chí ? Nỗi
hoài nghi có cân đo đong đếm được theo một hệ quy chiếu nhất định nào đó ? Ở 2
con-người-sáng-tạo này, dù sống cách nhau mấy chục năm ở 2 thời kỳ lịch sử hoàn
toàn khác nhau, trong 2 khối không gian mà sự hít thở trái ngược nhau, nhưng đã
lấp lánh một giao thoa của tích hợp xung-cảm gần như trọn vẹn. Dưới lăng kính
của một người đọc, tôi trình bày họ theo cách của tôi. Hoài nghi của VŨ BẰNG tuần
hoàn đường sin với biên độ là tứ chiếng sự sống, còn, Hoài nghi của NGUYỄN
QUANG THIỀU đơn côi cánh én vút lên vụt xuống trên con sóng chữ. Nếu ánh mắt mở
ra từ Bốn mươi năm nói láo khắc khoải
đến ngoa ngoắt nghiệp “hót váng lên chơi” thì ánh mắt dán lên Sự mất ngủ của lửa vành vạnh cơn đen
trắng cục mịch buốt đêm người. Nếu vầng trán của Ngôi nhà 17 tuổi mềm dịu nét bồi đắp phù sa mới thì chúng ta lại dễ
nhận ra nhiều vết cứa sâu hoắm suy tư trên vầng trán Những kẻ gieo gió
. Nếu gò má nhà thơ làng Chùa oằn cong nằng nặng
dấu chân chim nghiêng nhánh Cây ánh sáng
thì Nhà văn lắm chuyện học trường Albert Sarraut tốt nghiệp Tú Tài Pháp
hốc hác đôi gò má như cơi trầu ngày vắng thuốc sau Cai. Nếu sóng mũi Vũ tiên sinh siêng năng phập phồng theo từng
khoảnh khắc ký ức để ngửi lấy Thương nhớ
mười hai thì nhà thơ họ Nguyễn thẳng tưng im lặng mặc cho Nhịp điệu châu thổ mới tung tăng trượt
sóng mũi mình. Nếu vành tai ông Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam run run theo
róc rách Những người đàn bà gánh nước
sông thì người chiến sĩ quân báo “trở
về từ cõi đam mê” khẽ nhếch đôi vành tai lên cho Tội ác và hối hận tự vang dội thành vọng âm giữa bốn vách đá dân
tộc… Chân dung của mình trong con mắt độc giả, mỗi người cầm bút có tự ý thức
và định đoạt được hay không ? Tôi nghĩ rằng: Có. Quan niệm “nhìn mặt bắt hình
dong” thỉnh thoảng tìm được đất sống trong địa-hạt-của-chữ, nhưng trong
địa-hạt-của-nghĩ thì “hình dong” (hay là bản sắc của một nhà văn) mới là thứ
diệp lục duy nhất nuôi/thụ hưởng thân trạng, tên tuổi, sự nghiệp của cây sáng
tạo.
Vườn sáng tạo không có hàng rào kẽm
gai bao bọc bốn phía. Vườn sáng tạo vô hướng xác định làm bất lực mọi loại la
bàn và phương nào cũng là phương-cũ đồng thời phương-mới. Vườn sáng tạo bày la
liệt vô vàn chiếc đồng hồ đông tây kim cổ nhưng mọi cây kim giờ kim phút kim
giây đều bại liệt trước vĩnh hằng cái đẹp. Mái che là bầu trời. Người và Người.
![]() |
Nhà văn Vũ Bằng |
NGUYỄN QUANG THIỀU: - Ông làm gì “một mình trong đêm tối” ?
VŨ BẰNG: - Đừng hỏi. Cứ để cho “đứa trẻ đái ướt sũng tóc tôi rồi bỏ đi / vẽ vào bóng tối một vệt trắng
nguệch ngoạc”.
NGUYỄN QUANG THIỀU: - Chẳng ai tin ông dám trở lại trong
hình hài một đứa trẻ nữa bao giờ. Đôi cánh thiên thần, biết đâu không là một
phát minh vĩ đại từng có từ nguyên thủy. Văn chương, biết đâu không là bùa chú
của ả phù thủy cỡi chổi “tìm một từ vựng
/ có khả năng làm trống rỗng tất cả”…
VŨ BẰNG: - Hóa ra, tôi đã từng là một người già ư ? Sau từng
trải biết bao con đường mà ba lô sau lưng ngày càng nặng trĩu sai lầm và kinh
nghiệm ? Cai – không dễ dàng gì.
Người ta tìm hiểu và lý giải về sự cân-bằng rồi tham lam cho rằng mình đã khám
phá luôn sự mất-cân-bằng, có thật 2 hình thức vững chãi hoặc té ngã này có bản
chất trái ngược nhau: cân-bằng là không mất-cân-bằng và mất-cân-bằng là không
cân-bằng ?
…
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - Ký họa: Ba Tỉnh |
Cuộc hạnh ngộ giữa một thư viện với
một thư viện đã diễn ra như thế, túc tắc ngữ ngôn nhiễu giọt trên mái chữ, đôi
khi nhỏ xuống mặt người, lăn hồn nhiên qua trăm ngàn si mê ảo mộng lẫn đoạn
trường nết na đức hạnh. Trong lần gặp gỡ gần đây nhất, bữa đó tôi đã nhuốm men
say còn thi sĩ họ Nguyễn có lẽ không quen uống rượu nên mới nhấp vài ngụm cũng
kịp ngà ngà.
TÔI: - Ông đóng đinh tên mình vào THƠ hay THƠ chọn tâm hồn
ông làm nơi gởi gắm mát lành ? Trải qua hàng ngàn trang sách của ông, tôi ngạc
nhiên vì vũ điệu của những con chữ chân trần không cần váy hoa áo màu. Chữ, là
xác-tư-tưởng hay là điệu-nhảy-của-tư-tưởng ?
NGUYỄN QUANG THIỀU: - Thể loại là điệu-nhảy, Chữ là âm-nhạc.
Còn cách nào khác để chúng ta đứng trên sàn-diễn, nếu không tự mình nhảy múa
theo cách thức của mình ?
TÔI: - Đan-tê cũng thế ? Đông Ki-sốt cũng thế ?
NGUYỄN QUANG THIỀU: - Những tác gia lớn thường nhảy rất vụng
về. Khi ấy, tác phẩm và nhân vật nhảy thay cho họ. Cuộc lưu diễn miệt mài mở ra
bắt đầu từ nội tâm người sáng tạo cho tới trang sách, vào tâm hồn người tiếp
nhận và bất cứ cõi mông-lung-mênh-mông nào đủ sức dung chứa toàn bộ diễn viên
cùng khán giả đến dấu-chấm cuối cùng.
TÔI: - Ông, dường như luôn không kết thúc với dấu-chấm-hỏi
thường trực ?
NGUYỄN QUANG THIỀU: - Nhưng
tôi không thể mãi mãi mộng du, không thể mãi mãi chạy trốn nỗi sợ hãi …
Cũng bữa đó, tôi sung sướng nhận từ
người thi sĩ làng Chùa nhịp thủy chung của phù sa Châu thổ. Ông tặng sách cho một gã nhà quê mến mộ mình một cách rất
trang trọng và điểm chút hồng hào mắc cỡ. Môi cười hiền lành. Ít nói và nói ít.
Thanh âm từ con họa mi và thanh âm từ bụi gai, bạn thường chọn cho thính giác
giới hạn của mình gam rổn rảng hay trầm đắm nào ?
“Sống đôi lúc trong
hình thức tuyệt vọng một bộ hài cốt…
Bởi thế ngước mắt lên
và khóc và hát và đi…
Và lướt qua đám người
đang chụp hai bông hoa kín vào hai hốc mắt…”
Ông, chưa bao giờ nói rằng mình đã
học-sống. Niềm tin vào sự sống ngát ngời hơn bất cứ nỗ lực bám víu nào của một
phần tử bị loại khỏi một tập hợp rỗng. Cái bóng của niềm tin là hoài nghi ư ?
Tôi cố ý trêu chọc và khiêu khích ông, bằng hỗn độn lý luận ký sinh (chứ không
phải cộng/hiện sinh) trên ngồn ngộn cuộc sống này, càng quay quắt hoài nghi và
cố công tìm kiếm điểm dừng của hy vọng thì nguồn sống đích thực của cả 2 chúng
tôi đều đã rẽ theo dòng tự nhiên của nó (hoặc không phải của nó nhưng nó không
làm sao từ chối được), chân lý nảy nở bất thình lình theo kiểu con gà con vàng
ươm bóc mình khỏi vỏ trứng:
“mục đích của sáng tạo
là thiên tư của chính mình
sáng tạo không tìm
kiếm cảm giác, cũng không tìm kiếm thành công
thật xấu hổ khi không
có một ý nghĩa nào
mà lại luôn được nhắc
đến trên đôi môi mọi người
cần phải để có những
chỗ trắng trong cuộc đời
nhưng không phải trên
trang giấy
viết ra cả ngoài lề
những chương sách của
một cuộc sống thật đầy”
(Boris Pasternak – trích theo ACE của Lê Hải)
NGUYỄN QUANG THIỀU tự nguyện chọn
bổn-phận-thi-sĩ giữa vạn đại lựa chọn u uẩn khác. Cái mốc ông neo đậu trái tim
mình và huơ tay xua đuổi tật nguyền bốn phương tám hướng đời ném trả, là nỗi
hoài nghi chưa bao giờ thoát xác khỏi triền miên sắc màu áo-sống phấn-son cùng
mặt-nạ.
“Chiều nay con ngồi ho
bên cửa
Bao sợi mưa đứt hết
cuối trời
Con chờ đợi nỗi niềm
già như cát
Lặng lẽ suốt đời cởi
áo thả vào sông”
Áo thả vào sông hóa thành mảnh ấm
êm gom góp giấc lục bình lưu lạc. Cuộc đời mình, ai đã muốn mang kiếp lục bình
lưu lạc để dõi niềm hy vọng theo dòng và ngồi đếm quạnh hiu tuyệt vọng ghé
ngang ca cẩm gạ gẫm tâm hồn mình ? Thời gian như “con chó liếm mãi, liếm mãi, liếm mãi, liếm mãi, liếm mãi…”, cái
lưỡi của nó dành cho hoang đàng xúc cảm chưa đặt tên trên khuông số của
ủy-mị-cảm-giác cộng hưởng mê-ly-trí-não, thẳng tuột kéo dài thân thể bạn và cái
bóng bạn (đồng thời) lê mòn bức tường vuông vắn tính-luật thẳng góc tính-người,
cái lưỡi chứ không phải con chó trở thành chủ thể của mọi động
tác đã có trong cuộc truy nã cội nguồn tính-lộng-của-chữ, bỏ qua thương tật của
bản năng và nguyên thủy, vượt thoát gian nan khổ ải thành quách điên rồ dựng
lên bằng nắm-nhau và nắm-đất hoan lạc, chúng ta tỉnh giấc trên lụa là nệm gấm
tức-thì-vật-chất hoặc vĩnh viễn ngáy khò cùng triền miên cuồng-điên-mát-lạnh
tiếng gà dội vách sáng.
Niềm tin lộng lẫy bao nhiêu thì Hoài nghi cũng rỡ ràng bấy
nhiêu. Hai cơ-thể-cảm này khó thể phân định giới tính/tuổi tác cứ quấn lấy nhau
nhưng chẳng thể hòa tan vào nhau, làm nên cuộc hôn phối ý-tính bất đắc dĩ “Em nằm nghiêng trong đêm/ Như con thuyền cô
đơn nép mình bên bến cát/ Tôi cởi áo mình ra căng một cánh buồm” trên tấm
drap trắng biện chứng chờ đợi cơn nhàu nát xúc-cảm-sáng-tạo. Những đứa con đang
gom dần sự sống của cha mẹ vật vã tận hiến. Chúng lấy đi nhưng không làm cho
mất đi, mà thong thả làm đầy như “Thời
gian cứ lặng lẽ chảy vào chiếc bình gốm cổ khổng lồ… Và đến khi tôi không còn
gì để đếm” …
Cả VŨ BẰNG lẫn NGUYỄN QUANG THIỀU
ắt hẳn không thể ngờ chân dung mình trên tấm voan người sau không im ắng một
hình hài phẳng phiu cố hữu mà luôn được/bị sáng tạo lại nhiều lần sau nữa. Sáng
tạo cho đến lúc giao hoan giữa Niềm tin và Hoài nghi mở cực kỳ biên độ và tốc
độ. Khi ấy, Cô đơn là món quà thiêng trên ngọn tay chúng ta kiêu hãnh ban phát
và đón nhận từ chính tâm hồn mình.
Bàrịa, 03/11/2011
TS.